Giai đoạn ung thư và di căn
Các giai đoạn bệnh ung thư phổi
Bệnh ung thư phổi và các giai đoạn bệnh được phân loại dựa vào tính chất bệnh
và tình trạng cụ thể của khối u. Ung thư phổi được chia làm hai thể chính là ung
thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ. Trong đó, ung thư phổi tế
bào nhỏ là loại ung thư nguy hiểm hơn, chiếm khoảng 16% tổng ca bệnh. Loại bệnh
này có tốc độ phát triển nhanh gấp đôi loại còn lại và nhanh chóng di căn
xa.
Với ung thư phổi tế bào nhỏ, các giai đoạn được chia như sau:
Giai đoạn hạn chế (giai đoạn khu trú): tức là giai đoạn bệnh khi chưa lan
rộng, tế bào ung thư được tìm thấy chỉ trong một lá phổi và các mô xung quanh
nó.
Giai đoạn lan rộng: Tế bào ung thư lan rộng ra khỏi phạm vi một bên lồng
ngực, di căn đến những cơ quan ngoài lồng ngực.
Với ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, các giai đoạn được chia như sau:
Giai đoạn bị che lấp (bệnh không rõ giai đoạn): Các tế bào ung thư phổi được
tìm thấy trong đờm hoặc trong mẫu nước rửa phế quản thu thập được trong quá
trình nội soi phế quản, nhưng khối u không thể được nhìn thấy trong phổi.
Giai đoạn 0 (Ung thư biểu mô tại chỗ): Các tế bào ung thư chỉ được tìm thấy ở
lớp niêm mạc tận trong cùng của phổi. Khối u không phát triển qua lớp niêm mạc
này. Khối u không phải là ung thư lây lan. Thực tế cực kì hiếm có giai đoạn này,
nó chỉ có ý nghĩa nhiều trong các nghiên cứu.
Giai đoạn 1(IA): Tế bào ung thư tăng sinh thành một khối có kích thước không quá
3 cm tính theo đường kính dài nhất, xung quanh u là mô phổi lành và khối u không
xâm lấn vào phế quản và không có bất cứ hạch di căn nào.
Giai đoạn IB: Khối u có kích thước lớn hơn, phát triển xâm nhập sâu hơn nhưng
các tế bào ung thư chưa di căn đến hạch bạch huyết. khối u có kích thước lớn 3
cm chưa xâm lấn vào phế quản gốc. Nó đã bắt đầu phát triển xâm lấn màng phổi
tạng.
Giai đoạn 2(IIA): Khối u phổi lớn hơn 3cm các tế bào ung thư đã tìm thấy trong
hạch bạch huyết gần khối u.
Giai đoạn IIB: Các tế bào ung thư không tìm thấy trong hạch nhưng có thể tìm
thấy tế bào ung thư thành ngực, cơ hoành, màng phổi, phế quản chính hoặc ở mô
quanh tim.
Giai đoạn 3(IIIA): Khối u có bất cứ kích thước nào, các tế bào ung thư có trong
hạch bạch huyết gần phế quản và trong hạch nằm giữa phổi nhưng cùng bên phổi với
khối u.
Giai đoạn IIIB: Khối u có thể có bất cứ kích thước nào, các tế bào ung thư
tìm thấy trong phần đối bên của lồng ngực hoặc hạch trên xương đòn. Khối u có
thể xâm lấn vào cơ quan lân cận như tim, thực quản, khí quản. Khối ung thư lan
sang thuỳ khác với thuỳ phổi có khối u.
Giai đoạn 4(IV): tế bào ung thư phát triển ra khỏi phạm vi phổi, nếu có tế bào
ung thư trong dịch màng phổi thì là giai đoạn IVA, nếu tế bào ung thư thấy trong
gan, xương, não….thì có giai đoạn IVB.
Tiên lượng sống:
Ở mỗi giai đoạn sẽ có phương pháp điều trị bệnh khác nhau giúp đạt hiệu quả
tốt nhất. Tuy ung thư phổi là bệnh lý ác tính có tỷ lệ tử vong cao, nhưng vẫn
luôn có cơ hội kéo dài sự sống nếu được điều trị tích cực. Với nhiều nghiên cứu
y học được tiến hành, tỷ lệ sống đối với căn bệnh này ngày càng tăng lên.
- Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân với giai đoạn I của ung thư là 70%. Khi phát
hiện bệnh nên kịp thời điều trị
- Những bệnh nhân ở giai đoạn II của bệnh ung thư phổi có thể sống đến trên
năm năm khi được điều trị thích hợp có 36% các trường hợp. Ung thư phổi tế bào
nhỏ của con số này là không quá 18%.
- Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư giai đoạn thứ III của sự phát triển là
rất thấp và hầu như gần bằng không. Chỉ có 9% bệnh nhân có thể được cứu khỏi cái
chết khi sử dụng các công nghệ tiên tiến hiện đại để điều trị ung thư.
- Ung thư phổi giai đoạn 4 kết thúc với một kết quả gây tử vong nếu không
được điều trị. Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân có thể khác nhau tùy thuộc vào giai
đoạn phát triển của nó, cũng như điều trị bằng các kỹ thuật tiên tiến để kéo dài
cuộc sống của bệnh nhân.